Buste du poète Du Tu Le par l’artiste vietnamien UuDam Tran Nguyen, 2006.

Le poète Du Tử Lê (Lê Cự Phách, de son nom de naissance) est décédé le 7 octobre 2019, à Garden Grove (Californie, Etats-Unis), à l’âge de 78 ans. Il était né en 1942 dans la province du Ha Nam (nord du Viêt Nam), mais avait émigré avec sa famille vers le sud du pays après les accords de Genève, en 1954. Il suivit par la suite des études de lettres à Saigon au début des années 1960.

Ancien officier de l’Armée de la République du Viêt Nam et reporter de guerre pour la revue Tien Phong (l’Avant-Garde, revue de l’ARVN à ne pas confondre avec le journal nord vietnamien du même nom), dont il a aussi été rédacteur en chef, Du Tử Lê avait reçu un grand prix de littérature en 1973 après la publication d’un recueil de poèmes rassemblant sa production entre 1967 et 1972. Condamné à mort par le Front National de Libération du Sud du Viêt Nam (FNL), il partit pour les Etats-Unis en tant que réfugié politique le 30 avril 1975, où il vécut le reste de sa vie et contribua à de nombreux journaux en langue vietnamienne et anglaise.

Il est l’auteur de plus de 70 ouvrages, pour la plupart des recueils de poèmes.

Le texte ci-dessous s’appelle : « Poème rédigé après la mort de l’enfant ». Il date du 23 mai 1971.

Poème rédigé après la mort de l’enfant

Maintenant, cela fait quinze jours que notre enfant est né
Quinze jours également que notre enfant est mort
Maintenant que tu as commencé à recouvrer tes forces
Je veux te dire
Arrête de pleurer
Il ne faut pas t’apitoyer
Il ne faut pas avoir du ressentiment pour le destin
Mais au contraire, le chérir
Il faut chérir notre enfant
Qui a eu la chance de ne pas avoir à vivre cette vie
Cette vie qui est la mienne et qui est la tienne
Il faut chérir notre enfant
qui ne vivra pas les humiliations de la misère
que nous connaissons dans notre pays devenu si étrange

Maintenant, cela fait sept jours que je t’ai ramenée de la maison des corps blessés
(sur la banquette arrière du taxi, avec tes vêtements, quelques affaires sales et des larmes)
Maintenant cela fait sept jours que je n’ai plus à m’occuper de toi à chaque instant
Sept jours que je n’ai plus à m’asseoir sur les bancs de pierre de l’hôpital
(ce banc sur lequel, il y a quatre ans, je t’ai attendue pendant que tu veillais une sœur malade
dans l’œil de laquelle je lisais toute l’antipathie de tes proches à mon égard)
Je veux te dire
Je n’aime pas faire semblant d’être le père idéal
Notre enfant est mort tout juste après sa naissance
Mais je ne veux pas devenir non plus un père impuissant
Qui verrait son enfant grandir
Et devenir un jouet pour d’autres
Dans la guerre
Comme moi je l’ai été
Un jouet
qui n’attend que d’être cassé

Maintenant, les douleurs de ton ventre ont commencé à disparaître
Les bols de riz que tu manges ne sont plus assaisonnés de larmes
Je veux te dire
Cela fait quinze jours que notre enfant est mort
Et tu n’es plus enceinte
Au moins pour l’instant
Parce que je ne veux pas
Que la guerre nous dérobe notre enfant
Alors que celui-ci est encore dans le ventre de sa mère
Toi que j’aime tant – toi que je vois pleurer
Devant tes crises de douleur
Tous ces mots : démocratie liberté
Tous ces appels à la justice pour la nation
Toutes ces idéologies, tous ces dirigeants
Pour moi
N’ont pas de valeur à côté
D’une feuille de papier journal qui pourrait servir de lange à un enfant

Toi que j’aime tant
Il faut sourire à nouveau
Car dans cette vie qui est la nôtre
Il reste encore bien des choses douloureuses à affronter.

(Traduit du vietnamien et présenté par Louis Raymond)

Thơ Viết Khi Con Qua Đời

Bây giờ mười lăm ngày sau khi em đã sinh
mười lăm ngày sau khi con đầu lòng của chúng ta đã chết
bây giờ lúc em đã bắt đầu bình phục
anh muốn nói với em
thôi đừng khóc
đừng tủi thân
đừng oán hờn số phận
mà hãy mừng
phải hãy mừng cho con ta
đã may mắn không phải làm người
như anh và như em
hãy mừng cho con ta
không phải sống nhục nhằn khốn quẫn như ta
giữa quê-hương-mình-xa-lạ

Bây giờ bảy ngày sau khi anh đem em ra khỏi nhà thương
(trên băng sau của chiếc tắc-xi cùng với áo quần, đồ dơ, và nước mắt)
bây giờ, bảy ngày, anh đã không phải nuôi em trong nhà thương
bảy ngày qua anh không còn ngồi trên băng ghế đá của bệnh viện
(cái băng ghế cách đây bốn năm, anh đã ngồi trông chờ em vào thăm nuôi một người chị nằm bệnh
trong mắt nhìn canh chừng với đầy ác cảm của những người thân gia đình em)
anh muốn nói
anh không thích đóng vai một người cha bạc phước
con qua đời ngay lúc mới sinh ra
nhưng anh không thích mình trở thành một người cha bất lực
nhìn con mình lớn lên
trở thành một thứ đồ chơi
trong chiến tranh
như anh
một thứ đồ chơi
chưa bể

Bây giờ những cơn đau bụng của em đã bắt đầu nguôi
những chén cơm em ăn đã không còn hòa cũng nước mắt
anh muốn nói với em
mười lăm ngày sau khi con đầu lòng của chúng ta đã chết
thôi em đừng có thai
ít ra trong lúc này
bởi anh không muốn
chiến tranh sẽ cướp mất con ta
ngay khi nó còn ở trong bụng mẹ
em dấu yêu – em đẫm lệ
trước cơn đau của em
những danh từ: tự do dân chủ
những chánh nghĩa quốc gia
những lý tưởng, những nhân danh
với anh
không quý bằng
một manh giấy báo để lót

Em dấu yêu
em hãy gượng cười
vì đời sống chúng ta
còn trăm ngàn đớn đau hơn thế

23/5/1971

Previous articleLe romantisme du journalisme de guerre – sur River of Time, de Jon Swain
Next article[Conférence]Le Vietnam : les Vietnamiens face à leur mémoire
Louis Raymond est journaliste. Il s'intéresse aux questions sociales, politiques et historiques en Asie du Sud-Est et en Europe. Il est l'un des animateurs de la revue Les Cahiers du Nem et le secrétaire du bureau de l'association qui l'édite.

Laisser un commentaire